logo


Bài viết gần đây
DHNLTT02 LƯU THÁI TUẾ TRONG  PHONG THỦY
Dịch học
DHNLTT02 LƯU THÁI TUẾ TRONG PHONG THỦY

Lưu Thái Tuế được dùng trong Tử Vi Đông A để dự báo niên vận. Phản ánh bối cảnh tác động tới Mệnh. Phong thủy Đông A dùng lưu Thái Tuế để dự báo các biến cố xảy ra theo niên vận khi các Phương vị được kích hoạt và đáo Khí tới nhà cửa, mồ mả, hay một nguyên cục đang khảo sát ( bể phốt, ban thờ, đường, cổng...). Lúc này các Nguyên cục họa hay phúc mới được Lưu Thái Tuế kích hoạt khi nhập vận. Ví dụ như cổng một Nhà máy mở phạm Đại Không Vong 57.5 độ thuộc cung Dần_Mão, thì Hoạ sẽ ứng nghiệm vào năm 2022 chạy qua 2023 chủ dùng tiền sai mục đích ban đầu nên gặp hoạ. Cổng là góc nhìn với thế giới quan bên ngoài, nên vì không Nhất Tâm, đầu tư ngoài lịch vực chuyên môn mà gặp Hoạ lớn. Cũng tương tự nhà và từ đường đặt 140 độ Tốn phương, cổng mở tay phải đặt vào Đại không vong 158 độ, kiêm cả sang Bính. Ngõ vào từ đường cũng là bờ ao tạo góc ao dẫn thẳng nhân khí đi vào gian chính Từ đường. Tới năm Tỵ Ngọ Lưu Thái tuế tới, xung thẳng nguyên cục Đại không vòng vào nhà, trưởng nam tuổi Tỵ chết vì thủy nạn. Lưu Thái Tuế dẫn Khí xấu thì cũng sẽ dẫn Cát Khí, giống Tử vi. Thái Tuế kích hoạt cung tốt thì Phúc tới, kích hoạt Hung Khí, ám hay tạp Khí thì hoạ tới. Nguyên cục loan đầu tốt, Thái tuế tốt là Phúc tới, nguyên cục phá bại, Thái tuế tới là Họa đến. Lưu Thái Tuế khi tương tác với nguyên cục sẽ nhìn thấy được góc nhìn Dịch lý ẩn tàng trong các Phương vị. Phương vị khác nhau vốn nặng nhẹ, thăng giáng, trầm ổn hay góc cạnh khác nhau. Khi gặp Thái tuế sẽ kích hoạt Lý khí các cung vị rõ rệt. Như Thân kim thì nặng tính sát phạt hình thương nhanh chóng, Bính thì tàng họa phúc rất sâu dày, Tốn tỵ nặng tính thị phi, Thìn tàng sắc dục, ... 24 sơn hướng như những hệ thống hợp âm trong 1 dàn nhạc giao hưởng, mà ở đó thiếu Thái Tuế, thì dàn nhạc không thể cất lên được. Thái tuế là Động, nó chỉ dụng được ở thể Tĩnh của cung vị. Nên vì vậy cung vị lại động đúng năm Thái Tuế, giống như đến lúc đàn phải gảy, mà dây thì còn đang mải đi sửa, đi thay, nên là bản chất là mất Thiên Thời. Chữ Thời được nhận diện thông qua tương tác Lưu Thái Tuế và Cung vị, giữa Thời gian và Không gian, giữa Vũ và Trụ để định cát hung.

01/08/2024
MỆNH ĐĂNG_CON ĐƯỜNG HƯỚNG VÀO TRONG
Tử vi
MỆNH ĐĂNG_CON ĐƯỜNG HƯỚNG VÀO TRONG

Bài 1: Mệnh Đăng. Lời ngỏ. Trong một lúc hiếm hoi nào đó, chúng ta tìm được một nơi thanh vắng ít bóng người. Đêm xuống và ngẩng lên nhìn sao sáng, chúng ta lặng im nghe những âm thanh của tự nhiên. Những khoảng thời gian như vậy thật hiếm hoi trong nhịp sống hiện đại, nhưng lại là không gian sống thường nhật với những người thuộc thế hệ xa xưa. Chỉ một trăm năm trước, đêm không có ánh điện, giữa nhà đốt ngọn đèn, ánh sáng leo lét. Vào đêm trăng, một màu bạc phủ lên muôn vật, âm thanh côn trùng và tiếng gió thổi qua kẽ lá. Trong cái khoảng không mà con người và tự nhiên gần nhau như thế, chúng ta dễ nảy sinh những suy tư và chiêm nghiệm về chính bản thân mình, về thế giới xung quanh, về sự sống và cái chết, về ý nghĩa tồn tại của con người. Những suy nghiệm như trên trở nên hiếm hoi trong nhịp sống hiện đại, vốn đủ đầy hơn và muôn vàn thông tin khiến tâm thức bận rộn hơn. Bởi thế, khi kiếm tìm những chân giá trị của cổ học Phương Đông, tôi thường đặt mình trong một trạng thái vắng lặng và thanh tĩnh. Tâm cảnh đó giúp tôi như sống lại trong không gian của người xưa, để ý thức vượt thời gian mà cùng trò chuyện với cổ nhân. Cuốn sách này tôi viết trong sự quạnh hiu của một hành nhân lang thang cả đời bới tìm lại những dấu chân xưa cũ. Con đường người xưa đi khói bụi che mờ, còn đâu đó xót lại những tàn tích đổ nát của một thời kì hiền nhân tìm đạo. Nay tôi viết những dòng này, kể cho bạn nghe những gì tiền nhân thao thức, kể cho bạn nghe những gì người xưa kiếm tìm. Để đâu đó, khi chúng ta lạc hướng giữa muôn ngàn lối rẽ, ta soi lại bóng mình. Để mỗi sáng luôn thấy rằng cái bóng ở phía sau và con đường ta đi vẫn chỉ về Phương Đông. Phương Đông của sách này không phải Phương Đông địa lý, không phải Phương Đông phân biệt với Phương Tây. Phương Đông của sách này là phương của mặt trời mỗi sáng đều hé đỏ để soi tỏ. Bài 1: Mệnh. Nếu có một sự kiện xảy ra mọi lúc quanh chúng ta, từ cấp độ nhỏ nhất đến vũ trụ rộng lớn bao la, đó là Sinh và Diệt. Muôn vật được đặt trong một chu trình bất dịch: sinh ra, trưởng thịnh, suy tàn và tiêu tịch. Vạn vật nằm trong cái vòng sinh diệt ấy, tồn tại trong một sát na hay dài tỷ năm như thiên hà, liệu có mang trong mình một ý nghĩa nào đó? Giọt mưa rơi chỉ là giọt mưa rơi. Hay nó mang trong mình ý nghĩa tưới nhuần cây cối? Mặt trời sáng chỉ là mặt trời cháy. Hay vầng nhật mang trong mình ý nghĩa nuôi dưỡng muôn vạn sự sống? Ta sinh đến chỉ là ta sinh đến. Một ngẫu nhiên tinh trùng gặp trứng, một ngẫu nhiên ta trưởng lớn rồi tiêu tán giữa đời. Hay sự tồn tại của mỗi con người đều có một ý nghĩa nào đó chờ được tìm thấy? Ý nghĩa ấy, người xưa gọi là Mệnh. Dường như rất khác so với quan niệm ngày nay khi phần đa nghĩ rằng Mệnh là một loại án đặt, một kịch bản sắp xếp trước dành riêng cho mỗi người. Mệnh với người xưa là ý nghĩa tồn tại của mỗi con người. Là thứ phải tìm để hiểu, phải học để tỏ tường. Mỗi chúng ta sinh ra có mệnh, sinh mệnh ngắn ngủi này tồn chứa một ý nghĩa nào đó làm căn cớ cho sự tồn tại. Quan niệm này đối lập với chủ thuyết hư vô, vốn cho rằng mọi thứ đến và đi, sinh và diệt vốn chẳng có ý nghĩa nào cả. Mệnh là sự thao thức băn khoăn của bao nhiêu thế hệ. Nó thôi thúc những hiền nhân ngẩng đẩu nhìn sao, cúi đầu xem đất, đi ngàn dặm để trải nhân sinh. Để từ đó ngõ hầu tìm ra một phương thức để tìm mệnh, hiểu mệnh và đạt mệnh. Đâu đó trong số những con người cũ đã tan thành cát bụi, vẽ nên một con đường huyền ảo kì diệu. Trải qua ngàn năm có lẻ, Tử Vi đẩu số vẫn tồn tại như một chiếc la bàn chỉ Mệnh, huyền bí và đầy rẫy những câu đố thách thức trí tuệ người sau. Để ai đó đột nhiên hiểu ra, trên quá trình giải mã những ẩn số tiền nhân lưu lại, cái ta thu được lại không phải là những phương thức tiên tri hay dự báo, mà lại là sự hiểu biết và cảm nghiệm những kì diệu của tạo hoá. Để từ đó, không phải lá số tử vi hay một phương trình đẩu số chỉ cho ta Mệnh của mình, mà những cảm nghiệm ấy soi tỏ cho ta biết ta là ai và ta sinh đến để làm gì. Bài 2: Học Mệnh để xu cát tỵ hung? Quan điểm phổ biến trong giới nghiên cứu ngày nay đó là: Học mệnh để tiên tri, dự báo rồi từ đó đón tốt tiễn xấu. Quan niệm này liệu có phải là khởi đầu để tiền nhân lập thuyết mà tìm Mệnh? Nguyên lý âm dương luôn cần một điểm lập cực để phân âm dương. Nóng là nóng so với cái gì, lạnh là lạnh so với cái gì. Cũng như 1000 độ là dương so với 100 độ, nhưng lại là âm khi so với 1 vạn độ. Vậy nên, câu hỏi căn bản cần trả lời đó là: Cát hung là cát hung so với cái gì. Có thể dễ thấy, khái niệm cát hung của đại đa số là: Được như ý mình là cát, ngược với ý mình mong là hung. Ai cũng mong giàu có, nên tài vận đến gọi là cát, tiền bạc đi gọi là hung. Chính vì quan niệm này, mà ngàn năm nay Huyền học trở thành một phương tiện mà người người mong mỏi có thể giúp họ đạt được ý nguyện. Nếu chỉ dừng ở đó, việc học và dùng chưa đến mức suy đồi tha hoá. Nhưng tâm người mong cầu vô độ. Kẻ có tiền mong thêm quyền, kẻ có quyền mong thêm tiền. Kẻ có quyền tiền mong thêm danh. Kẻ đủ cả quyền tiền danh mong trường thọ trăm tuổi. Cứ thế không ngừng... Mong ước cuộc sống càng trở nên đầy đủ không sai, nhưng vì mong ước ấy mà án đặt cho Huyền học cái chức năng phục vụ mọi nhu cầu đón lành tránh dữ, tất yếu huyền học suy đồi. Đạo của trời lấy chỗ thừa bù chỗ thiếu. Thành thịnh suy hủy là lẽ biến đổi vĩnh hằng. Mong mọi thứ luôn như ý nguyện là cái mong vô độ, trái với luật lệ tự nhiên. Các triều đại bỏ ngàn vàng, trảm long đoạt mạch, bài bố phong thủy nhằm kéo dài vương quyền. Người có tiền thuê thầy phong thủy đặt mộ cha ông mong sao trường phát. Nếu huyền học chỉ để phục vụ loại cát hung đó, loại cát hung được định nghĩa đơn thuần: như ý là cát trái ý là hung, thì huyền học mãi chỉ là thứ huyền hoặc. Nếu không thể dùng ý người để lập cực cho cát hung, vì ý người vô độ, thì ta nên lấy gì lập cực. Ta cần một điểm phân biệt, để trái với nó là hung, thuận với nó là cát. Và điểm lập cực ấy phải khiến con người trong quá trình xu cát ( đón lấy cái tốt) trở nên toàn thiện hơn. Phật thích ca mầu ni bỏ vương quyền và sự giàu có, lang bạt khắp nơi, chịu bao đau khổ. Nếu chiếu theo cái ý người vẫn mong, thì Phật đã không biết lối tỵ hung ( tránh cái dữ) Chúa Jesus, tiên liệu được cái chết của mình như vẫn chấp nhận. Đó có phải là Ngài không thể xu cát ? Bởi thế, người xưa định lệ cát hung không lấy ý người mà lập cực, mà lấy Mệnh để lập cực. Mệnh phải hiểu là ý nghĩa tồn tại, là sứ mệnh của một con người khi sinh đến. Cái gì làm cho Mệnh ấy được tỏ tường và thông đạt, đó là cát. Cái gì làm cho Mệnh ấy mờ tối mà bế tắc, đó là hung. Với Chúa Jesus, Mệnh của Ngài là thông qua cái chết của mình để thức tỉnh lương tri đám đông. Nên cái chết của Ngài làm cho Mệnh của Ngài trở nên tỏ sáng. Cái chết ấy là Cát. Nên dù phần nhân tính của Ngài sợ hãi và đau khổ, Ngài vẫn kiên định đi đến cái chết dù ngài có thể tránh được. Phật Thích Ca, vương quyền làm cho Mệnh cứu nhân trở nên mờ tối và vướng bận. Dù với ý niệm thông thường, vương quyền giàu có là thứ cả tỷ người mong muốn. Thì nó vẫn là cái Hung với Mệnh của Ngài. Nếu lấy Mệnh để lập cực, thì điều kiện tiên quyết của người học huyền học trước khi xu cát tỵ hung đó là Hiểu Mệnh của mình ra sao, ý nghĩa tồn tại của bản thân là gì. Không hiểu Mệnh của mình thì làm sao khiến cho nó tỏ sáng để gọi là cát, không hiểu Mệnh làm sao tránh được thứ khiến nó mờ tối để tỵ hung? Cũng như 1 người mẹ, Mệnh của tình mẫu tử là hi sinh. Nên để cứu con mình người mẹ có thể từ bỏ cả cuộc sống. Việc từ bỏ mạng sống theo ý thường rõ nhiên là hung. Nhưng với Mệnh làm mẹ, hi sinh để con sống hạnh phúc lại là cát. Mệnh là ý nghĩa, là mục đích của sự tồn tại. Bi kịch của xã hội hiện nay là chỉ mong sao làm được thứ mình muốn. Họ gọi đó là tự do, là bình đẳng. Là mọi người cùng thoải mái truy cầu thứ mình muốn. Điều đó về nền tảng không sai, nhưng nếu cái ta muốn chỉ là những ý thích chóng qua được thoả mãn vô độ, thì sự thái quá sẽ tạo nên tính bất cập: Chúng ta lãng quên Mệnh của mình. ( VIÊN MINH)

01/08/2024
BÍ MẬT ĐƯỜNG LƯỜNG THIÊN XÍCH
Phong thủy
BÍ MẬT ĐƯỜNG LƯỜNG THIÊN XÍCH

Phong thủy huyền không sử dụng đường lường thiên xích như “Tiên đề Ơ-clit” để định cát hung của Phương vị trong không gian theo thời gian. Câu hỏi là “ Vì sao đường Lường thiên xích lại di chuyển theo đồ hình như vậy ? ” Độc giả có thể đọc Trạch Vận Tân Án để có những kiến thức nền về chủ đề này.   Chủ đề này tuy ngắn, nhưng để gợi mở 1 vấn đề đau đầu của Huyền không, và đường đi của Lường Thiên Xích. Lường Thiên Xích đi theo các bước nhảy dao động có quy luật sau: “ Âm trước- Dương Sau” và “ Tĩnh trước- Động sau” Dịch học quy về Tượng để người học dễ nắm được hình, nhờ Hình mà hiểu Lý, biết Số. Chu trình từ “Tĩnh trước Động sau” của 4 quái Âm từ Khôn tới Đoài: Khôn 1 vi Lão bà, tới Tốn 2 vi Trưởng nữ; Tốn 2 vi Trưởng nữ, tới Ly 3 vi Trung nữ; Ly 3 vi Trung nữ, tới Đoài 4 vi Thiếu nữ.; Đoài 4 về Trung Cung là 5 là 1 Mậu (Mậu là 5), kết thúc chu trình quái Âm của số Sinh Chu trình từ “Tĩnh trước Động sau” của 4 quái Dương từ Cấn tới Càn: Trung Cung 5 chuyển qua quái Cấn 6 để đảo từ Âm qua Dương Cấn 6 vi Thiếu nam, tới Khảm 7 vi Trung nam; Khảm 7 vi Trung nam, tới Chấn 8 vi Trưởng nam; Chấn 8 vi Trưởng nam, tơi Càn 9 vi Lão ông; Càn 9 vi lão ông về Trung cung là 10 là 1 Kỷ (Kỷ là 10), kết thúc chu trình quái Dương của số Thành. Nên việc phân chia Cửu cung và phối Bát quái, đến từ sự quan sát và sự đo đếm chính xác và sắp đặt trong trật tự các hiện tượng vật lý có thể cảm nhận được như địa nhiệt ảnh hưởng tới vạn vật sinh sống, cũng như các hiện tượng “siêu hình” đồng nhất thể theo Dịch lý, về thực chứng thì đã trải qua ngàn năm, nhưng vẫn là những bí mật lớn lao của tạo dựng. Bát quái tiên thiên là Biểu đồ biểu kiến đường Hoàng đạo ảnh hưởng tới vạn vật trên trái đất: cực thịnh tới thang 7 ( hệ nhị phân) ở phương Hạ chí hay chính Ngọ, tĩnh về 0 ( hệ nhị phân) ở Đông Chí hay Chính Tý, thành sơ đồ hình Sin trong hình Thái Cực Âm trưởng Dương tiêu. Tuy nhiên Âm Dương ở đây không tuyến tính tăng giảm theo thời gian, mà nó tàng Lý tiêu trưởng nặng dịch lý

01/08/2024
LÀNG VIỆT VÀ CON TRÂU CÂY LÚA
Phong thủy
LÀNG VIỆT VÀ CON TRÂU CÂY LÚA

ĐÔNG A PHONG THỦY PHẦN 3: CON ĐƯỜNG PHONG THỦY ĐẠI VIỆT- CHƯƠNG 3: LÀNG VIỆT VÀ CON TRÂU CÂY LÚA [https://s3-cdn.aequitas.vn:9000/s24dapvpwebpt-test/1714721161921662249586659] Văn hóa Việt trong ngàn năm dựng và giữ nước luôn gắn liền với cây lúa. Giữa bùn sinh mồ hôi, nước mắt, lại là hy vọng về vụ mùa ấm no. “Người đi trong nước mắt đem hạt giống gieo trên nương đồng. Người về miệng vui ca tay ôm bó lúa ngào ngạt hương.” ( Thánh vịnh 125) Kinh điển Tân Ước có 1 câu ngắn gọn của Đức Ki tô: “Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.” ( Ga 12, 24). Trong cõi u minh của bùn sinh và mộ khí của hạt lúa đã chết, lại là sự khởi đầu của mùa xuân, vụ mùa, ấm no. Văn hóa địa táng của người Việt về đạo hiếu khi táng tổ tiên trên gò, táng ngoài đồng, chờ ngày Phục sinh. “Sống vì mồ vì mả, ai sống bằng cả bát cơm”. Về cấu trúc Dịch học, cây lúa mọc trên lớp bùn mỏng manh Sửu thổ. Sửu thổ cũng là con trâu- biểu tưởng của văn minh lúa nước, biểu tượng của Đại Việt. Ở 1 tầng sâu hơn khi phân kim, Sửu thổ tàng Kỷ Tân Quý. Kỷ thổ là âm thổ, dụng cái trống rỗng mà tụ lại gọi là Kỷ. Kỷ cũng đi từ Mùi về Sửu theo trục Lường Thiên xích qua Ngũ hoàng, nên Kỷ còn là cái đạo Hư vô của Thiên Hoàng, của Trời ở với con người qua cái đạo của quẻ Nhu và những cái Ăn mặc thường ngày, qua cái đại đạo của Thiên Lương, với tượng về vụ mùa, tháng 6, ấm no làm đại đạo “ Dân dĩ thực vi Thiên”. Đối xung với Mùi là Sửu- bùn lầy, nhưng cũng là nơi gieo trồng của lương thực, là khởi nguồn của Thiện tâm. Nên Sửu tưởng hiền hòa, mà tàng Tân kim, là hoa thơm quả ngọt nằm trong mạch ngầm Quý thủy. Nên Văn hóa Việt khi hiền hòa thì là cảnh thái bình của con trâu ( Sửu thổ) và đứa trẻ ( Dậu kim). Khi thời loạn ly là bẫy chông, bãi cọc Tân Kim ẩn tàng trong Sửu thổ để bẻ gãy ngoại xâm quân thù. Tượng rõ nhất là triết lý của quẻ Sư, 1 hào Dương ẩn tàng mà chế phục 5 hào âm còn lại. Quẻ Sư cũng là quẻ hiệu triệu dân nghèo, quẻ chiến tranh, quẻ nhân khí ở thời toàn âm, đạo của Thánh Nhân khi thời loạn. Văn minh lúa nước thế thấp cấu trúc quẻ Khôn 巛 hay 坤. Chiết tự chữ 巛 đã bao hàm hết nội vi thể và dụng của Làng Việt. Làng Việt như những dải lụa thuận tòng 順 xuôi theo mà hình thành cồn, gò. Quẻ Khôn như 3 vạch quẻ Càn nhưng ở thời dụng ẩn tang (lệch góc 90o ). Cũng là cái đạo lớn lao, nhưng nằm dưới bình nguyên. Gò đống nổi lên tới đâu là cư dân lập làng, sinh sống ở đó. Thuận theo đất, thuận theo mạch mà sinh tồn. Nhìn bề ngoài tưởng không theo trật tự, mà nguyễn lý ẩn tang thì lại vi diệu, cao thâm. Nhìn 1 gò nhỏ hay ruộng lạc nổi lên, có ai ngờ là thiên sơn vạn núi ngầm hội về mà nổi lên. Luật của Khôn là từ Âm nổi thành Dương, nghịch hành với quẻ Càn từ Dương nhỏ dần về Âm. Nên hình ảnh con trâu, cây lúa đều là các Logo biểu tượng về quẻ Khôn, góp gió thành bão, tích tiểu thành đại. 64 quẻ Dịch quẻ Địa Sơn Khiêm 6 hào đều tốt là ở cái lý cái thế lớn (Cấn) tàng trong cái Hư (Khôn). Nhìn quẻ Khôn 巛tưởng là thấp bằng, mà tàng sự Xuyên 巛, thấu và nắm vạn vật nên hiểu được lý cao thấp. Nên thế ở Sửu, mà dụng ở Mùi- chỗ cao khô, bao bọc cả Ngọ cửu. Trục Sửu Mùi là 2 thái cực giữa Ấm no của Mùi thổ, với mồ hôi bùn lầy của Sửu thổ. Người Việt dùng 1 câu Ca dao để thâu tóm sự cân bằng mà cũng đầy rẫy xung đột này: Trong đầm gì đẹp bằng sen, Lá xanh, bông trắng lại chen nhuỵ vàng. Nhuỵ vàng, bông trắng, lá xanh, Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Cây Sen là cặp nhị nguyên Thủy-Hỏa, chứa cả Tứ Thời, đạo lý vô cùng lớn về sự thấp cao, về Thịnh và Hủy nên cái lý của Dịch học thấu sang ý nghĩa của Phật học. Mùi, là vụ mùa, mùa gặt. Cũng là tai ách của Mạt 末 khi mất mùa. Vì Mùi là lương thực, lương tri, nên cũng dễ hiểu khi tâm thức Việt thường gắn đạo đức, đạo trời với sự ấm no của dân. Đạo thịnh dân an, đạo suy dân loạn, tất cả ở chữ Mùi. Làng Việt an hay bất an gắn với sự an nguy của cây đa, giếng nước, sân đình trong dòng chảy lịch sử thịnh suy. Khi thịnh, đồng được đem đúc chuông, tạc tượng. Khi suy cũng chính những biểu tượng phúc khí, an dân này lại bị chưng thu đúc thành súng đạn. Rồi thời bình tới, cũng vì sự khan hiếm của chính vật liệu này, nó lại quay trờ về với hình khí của những pho tượng, những quả chuông, những dồng tiền đồng. Không có tượng khí nào của dịch học lại trực quan như những mẩu đồng này. Nó chứng kiến loạn ly, thịnh trị của các triều đại trải dài ngàn năm Lịch sử. Ở thế kỷ XX, do những biến đổi thời đại khi đền chùa bị dỡ bỏ trong thời bao cấp, mà vô tình người Việt được chứng nghiệm những giá trị tinh thần, tâm linh này khi bị đánh mất. Những ngôi chùa, những dình đền đã được phục dựng, xây lại cũng là “tượng” với sự phục hung dần các giá trị cổ đồng hành cùng với sự phát triển về kinh tế. Người Việt rời bỏ chùa chiền, họa ập tới. Người Công giáo Việt rời bỏ tổ tiên, mồ mả, phúc trạch cũng tự cạn, họa cũng không tha. Dù theo tôn giáo, tín ngưỡng nào, thì trên hết vẫn là Luật của trời. Đền, Chùa, Nhà thờ là gốc rễ tâm linh của Làng Việt. Đền làng, phần lớn là thờ nhân thần. Những con người đã hóa thành lịch sử của 1 vùng, của đất nước. Lúc sống, các bậc tiền nhân này đã hiệu triệu nhân tâm xây cầu, đào kênh, khơi dòng ấm no, mở chợ. Thời loạn thì chống giặc, giữ nước, bảo vệ bờ cõi. “Thương dân dân lập đền thờ” Họ hiển linh sau khi đã hết cõi trần, và tiếp tục bảo vệ, giữ gìn, tạo phúc ấm cho Làng Việt từ đời này qua đời khác. Nên “Chúa quản Nhà thờ, Phật quản Chùa, Thành hoàng quản đền”. Bởi vì các vị Thành hoàng lúc sống đã dồn hết tâm cơ để mở làng, dẹp nguy, tạo an cho quê hương, sinh vi tướng tử vi thần, dân mang ơn, vua ban sắc , được phụng tự và tiếp tục có thể cân đo phúc đức cho thế hệ tiếp theo. Trấn thủ nam bang: “Ô hô! Trung khả hữu nhị, Nghĩa bất quá tam. Anh hùng vi đệ nhất. Sinh vi tướng, tử vi thần. Vạn thế danh lưu thanh sử, Nam thiên đại đại tồn chính khí.” (Lời cảm thán và tiên tri của Huệ Túc phu nhân về Trần Tử Đức trước cuộc kháng Nguyên Mông) Mở chợ, xây cầu, giáo dục, lo cho dân nghèo: “Khai thị tứ, tác kiều lương, kim cổ quyền hành, nhi hữu sự Tế bần gia, giáo trúc nghiệp, vãng lai xa cái, thế vô nhân.” ( Câu đối đệ tam giáp đồng tiến sỹ xuất thân Nguyễn Văn Tính thủ bút tại đền thờ dòng họ Phạm Đình gốc Trần triều đệ tam chi, viết về Tiến sỹ tham tụng Phạm Đình Kính (1669-1737). Làng Việt bắc bộ với văn minh gò đống, như những bông sen nở trong bùn lầy của lụt lội, cây lúa, con trâu. Khi lập làng, những vị Tiên sư đã lập đền, dựng chùa ở những gò cao nhất, cũng là 2 bông sen đẹp nhất về mặt phong thủy nổi trên mặt hồ. Nên Làng Việt bản thể gắn kết về tâm linh với các công trình Đền và Chùa. Phong thủy 1 làng không thoát khỏi hệ quy chiếu với 2 gò đất trung tâm này. Đặt mộ phần, chỉ cần nhất tâm xin Thành Hoàng, tu sửa bản thân gia tộc để noi gương tiền nhân giúp đời tốt mình, ắt là được linh ứng cát địa. Nền văn hóa Việt trải qua 1 cú sốc lớn giai đoạn Đền Chùa bị hủy hoại nhiều giữa thế kỷ XX, đi theo sau là sự sập đổ của chuỗi giá trị Nho gia, là 1 sự rung chuyển về nhân khí. Thay vì hướng tâm, chuyển sang đa điểm và dân chủ. Điểm tốt là sự quân bình và bình đẳng, điểm dở là sẽ ngày càng mất đi các giá trị văn hóa lõi đã tích tụ ngàn năm. Điều đáng mừng là trong những năm gần đây, việc phục dựng và hồi quy các giá trị gốc, ghi nhận công ơn tiền nhân đã được sửa chữa. Các sắc phong, các bản khai thần tích, thần phả, các bản hương ước cổ của Làng Việt như những sợi dây mảnh nhưng kết nối được các tinh hoa của quá khứ và hiện tại, và tìm được sự cân bằng và phát triển dựa trên căn gốc. Tương ứng với sự xáo trộn về tâm linh, là sự xáo trộn về phong thủy. Làng Việt đi cùng cuộc cách mạng về kỹ thuật trong nông nghiệp, ruộng đồng được đào kênh dẫn nước, bơm tưới và tiêu như bàn cờ. Từ việc chia ruộng cho dân nghèo, dẫn tới ruộng đồng cũng được chia theo ô bàn cờ, về mặt phong thủy là phá Dương long để tán khí, cũng là chia cho số đông khí mạch Làng Việt. Gò đống bị thoát khí, nhưng cũng tán khí đều hơn cho âm phần, nghĩa địa. Cây lúa từ 6 tháng, giờ còn trên dưới 130 ngày. Mùa giáp hạt trở thành ký ức nhờ cuộc cách mạng tưởng đi ngược luật tự nhiên này. Một hạt giống tạo nên kỳ tích này là nhà nghiên cứu nông học, giáo sư Bùi Huy Đáp (1919-2004) với công trình khoa học “Lúa Xuân”. Điều thú vị là từ đường đại tộc họ Bùi thôn Cốc Thành, Vụ Bản, Nam Định quê hương cụ, tọa Sửu 丑 hướng Mùi 未, hướng của căn cơ nông nghiệp, lương thực, con trâu cái cày. Và chính quê cụ cũng được hưởng lợi rất nhiều, cả về mặt phong thủy từ việc đào kênh tưới tiêu nông nghiệp cho toàn bộ vùng Thiên Bản cổ xưa, với trạm bơm Cốc Thành tưới lại dòng Vĩnh Giang cửu khúc nhà Trần. Nhưng cuộc cách mạng kỹ thuật này cũng phân tán giữa long và thủy, giữ huyết mà cơ thể, nên cần có những giải pháp đặc biệt để cấu trúc lại các huyết mạch bình dương này, vốn dễ tổn thương, nhưng cũng vẫn có thể phục hồi và hoàn mạch, đảo mạch để tạo ra dị mạch. Chỉnh dòng, điều nước 1 cánh ruộng, có thể đảo khí của bách tính 1 làng, thật vi diệu về cái đạo của quẻ Khôn thuận. Những bí mật lớn lao này như môn thái cực quyền trong phong thủy, dĩ vô chiêu thắng hữu chiêu. Một điều tiết nhỏ về thủy, có thể thay đổi cả 1 cuộc đất. Nguyên nhân của các làng khoa bảng không còn khoa bảng, hoặc chỉ còn hư danh, chỉ có thể chữa lành nếu hiểu được nguồn cội gây nên các mất mát về lý khí của nó. Một cuộc đất đã được “hàn” vết trảm long.

01/08/2024
TỬ VI NHỊ HỢP
Tử vi
TỬ VI NHỊ HỢP

Nguyên lý và ý nghĩa của Nhị hợp, một đối tượng ẩn mờ, chưa hệ thống hóa nguyên lý, nhưng chi phối phần lớn tính Động hay Tĩnh của các tổ hợp tinh đẩu trong Tử vi đẩu số. Nhị hợp là sự tung hứng giữa Hình và Khí, Thể và Dụng, Không gian và Thời gian. 2 vòng Thiên Phủ và Tử vi, như một cặp Đạo- Đức, Đạo có tính nguyên lý gọi là Khí, Đức có tính hiện hữu, gọi là Hình. Nguyên lý điều hòa cơ chế bên trong, tính Hiện hữu có tính vật chất, hình thể bề ngoài. Khí như lực hấp dẫn giữa 2 hành tinh, Hình là đường đi thật của 2 hành tinh chạy theo nguyên lý vận động của Khí. Thuận theo Hình của chòm Thiên Phủ, các nguyên lý của Khí của vòng Tử vi thể hiện qua những cặp Nhị hợp. Thiên Phủ- Thái dương nhị hợp Thái âm- Vũ khúc nhị hợp Tham Lang- Thiên đồng nhị hợp Cự Môn Thiên tướng Thiên lương-Liêm trinh nhị hợp Thất sát Phá Quân- Thiên cơ nhị hợp Như vậy chòm Tử vi, chỉ có Tử vi là không tham gia trực tiếp điều hòa các quan hệ Nhị hợp ( Tử vi Thiên Cơ Thái dương Vũ Khúc Thiên Đồng Liêm trinh). Vai trò và bản chất của Tử vi sẽ đề xuất ở một thời điểm nào đó. 1. Để trả lời câu hỏi: Nhị hợp bản chất là gì ? Lần lượt có lẽ nên đi từ việc phân tích các cặp nhị hợp trước khi đi đến tổng hợp, hệ thống hóa.

01/08/2024
PHÂN LOẠI MÔ THỨC TÌNH YÊU VÀ HÔN NHÂN TRONG TỬ VI
Tử vi
PHÂN LOẠI MÔ THỨC TÌNH YÊU VÀ HÔN NHÂN TRONG TỬ VI

Tử vi xuất phát từ Đạo gia. Đạo gia thường bàn luận về Vô và Hữu, nên tự nhiên có thể cân đo, lượng hóa được cả các vấn đề về Tinh thần tính. Tình yêu trong Tử vi cũng như các phạm trù khác về Trí tuệ, các giá trị vật chất, Phúc khí, điền địa, các tương giao xã hội... cũng được lượng hóa cụ thể, có thể đặt lên bàn cân logic mà đo đếm được họa phúc 1 đời người. Về nguyên lý luận Hôn nhân và Tình yêu trong Tử vi, nó thực sự là 1 bộ môn Triết học, phân tâm học, tâm lý học về con người. Ví như câu phú về cặp sát tinh mạnh nhất trong Tử vi: " Phu cung Không Kiếp lâm vào Gái trai phải độ ba tao mới thành". Chỉ 1 câu phú, nhưng cổ nhân đã đã ước định được các cửa ải mà 1 con người sẽ phải đối mặt trong Tình yêu. Vì sao Không Kiếp lại gây họa cho Hôn nhân. Đơn giản là Không Kiếp với cách an sao khởi từ cuối cung Hợi đầu cung Tý của 1 ngày mới, là khởi nguồn của những dòng Dị khí : Về trí tuệ là sự khác biệt và khởi đầu cái mới từ cái cũ. Về tâm thức và tâm lý là Dị tính, dị lộ, dị tư duy nên nặng tính bản cá, cá nhân, và thường cũng kiêm luôn sự vị kỷ, ích kỷ cao độ. Những đặc tính này là khởi đầu của khổ đau trong Tình yêu. Vì sao vậy ? Vì Tình yêu nam nữ đích thực là sự Cho đi tương tác từ 2 phía mà không cần màng lý do nhận lại, nặng tính hiến tế, hiến mình vì người mình yêu. Chỉ khi Ta cho hết những gì mà Ta có ( kể cả về mặt tinh thần, tình cảm), khi đó mới thực sự là Yêu. Như vậy nguyên lý của Tình yêu lại là giá trị cùng đích của Sự vị tha. Mà Vị tha là kẻ thù của bản ngã, vị kỷ của cặp Không Kiếp. Khi Tình yêu nặng tính chiếm hữu, bản ngã, nó bản chất đã bị khóa ở tính đơn điểm, tưởng là Ta yêu người, thực ra là Ta đang yêu chính bản thân mình, và đòi hỏi ở người mình Yêu những thứ mà Ta đang cần đến. Nên, có thể dùng Tử vi như 1 công cụ hữu hiệu để tạo ra 2 hệ thống phễu lọc: Hệ thống các bộ tinh đẩu hỗ trợ Tình yêu: Vị tha, vô ngã, cho đi, hòa đồng, sự hiểu biết, minh tính, niềm tin, sự đầy đủ về vật chất và tinh thần Hệ thống các bộ tinh đẩu hủy diệt Tình yêu: Vị kỷ, bản ngã, nhận lại, kép kín, sự vô minh, ám tính, khuyết thiếu niềm tin, sự thiếu thốn về vật chất và tinh thần Trong hệ chính tinh của Tử vi, các chính tinh Tử vi, Thiên Phủ, Thiên Cơ, Thái Dương, Thiên Đồng đắc cách là các sao phù cho hôn nhân vì thường chứa Phúc khí. Riêng Thái Dương thủ cần lưu ý về sự cho đi nhưng thường Vị ngã quá lớn mà lại hay cho đi cái mình có ( không phải cái người mình yêu cần), nên cũng thường gây trục trặc hôn nhân nếu không đủ sự hiểu biết. Thái Dương đi cùng ám tinh sẽ thành thảm họa, vì trao nhầm thuốc cho người mình yêu, mà người cho đi cứ ngỡ đó là thuốc bổ thì kiểu gì cũng tốt. Nhiều khi uống quá nhiều thuốc bổ cũng là 1 cách hạ độc. Thiên Đồng cũng chủ phúc thiện dày, nhưng nếu thiếu tính kiên định lại thường canh cải, đổi thay, không nhất tâm nhất khí. Không biết mình muốn gì, thì sẽ khó để biết được mình sẽ cần nhận gì. Nên khi gặp phụ tính chứa ám tính, dễ bị lừa dối vì nhẹ dạ, trao nhầm niềm tin. Thất sát với đặc tính " Hoa hỏa chi kim" ( lửa bắn ra khỏi lò luyện thép) , " cương táo nhi cô" ( cương khô mà cô độc), cũng là 1 sát thủ của Tình yêu nam nữ, vì tính dễ gây tổn thương người khác. Người mệnh thất sát chắc chắn hình khắc người thân khi sinh ra. Tuổi trẻ tân toan vất vả. Thất sát có 2 kiểu hình thương trong hôn nhân, hoặc là quá cương mãnh khi đi với Lục sát tinh ( Kình đà không kiếp quả linh, hoặc Thiên hình) gây tổn thương trực diện nhưng dễ quan sát phán đoán. Kiểu thứ 2 khi Thất sát gặp văn tinh bị hóa ám, nhất là Văn xương hóa kỵ , sẽ như cái gai âm ỷ ở xương tủy, nhổ không ra, chặt không nỡ. Thất sát gặp Đào hồng càng kích hoạt hấp lực dụ mật ngọt để gây tổn thương. Ngoài các chính tinh có những tinh đẩu đi về cô hư, hoặc nặng tính Không, như Cô quả ( không thích ồn ào, khép kín), Tuần ( cẩn trọng, kín đáo), Triệt ( ngã đau mà trở nên điềm đạm). Tùy lượng cân đo mà gia giảm. Trên thế gian thứ khó gọt dũa nhất chính là lòng người,khó làm thỏa mãn nhất cũng là lòng người, thứ khó ngăn trở nhất cũng chính là lòng người. Vương đạo lấy Đức để thu phục, Bá đạo lấy sức khuất phục. Tình yêu của Sát tinh chiếm hữu như Tây Sở Bá Vương Hạng Võ lại thành thanh kiếm giết người mình yêu là nàng Ngu Cơ. Hán binh dĩ lược địa, Tứ diện Sở ca thanh. Trượng phu ý khí tận, Tiện thiếp hà liêu sinh. Dịch nghĩa: Quân Hán đã cướp đất, Bốn mặt giọng Sở ca. Đại vương ý khí tận; Tiện thiếp sống chi mà? Chúa Giê su nói "Dùng gươm thì chết vì gươm", nó cũng ứng vào số mệnh của người Sát khí quá nhiều, sẽ hình khắc lục thân. Tình yêu của Hàn Tín với nàng Quý Đào thì khác, ông bỏ người mình yêu ở nơi thôn dã, rồi nàng cũng lấy chính tên đồ tể mà mình từng chui qua háng. Chẳng lẽ 1 Tề vương, dù là thời chiến, không thể lo được cho nàng, như cách mà Hạng Võ làm với Ngu Cơ? Nhưng đó lại là cách an toàn nhất cho người mình yêu. Hàn Tín không chỉ làm 1 người, mà cư xử giống nhau với cả 2 người con gái yêu mến mình. Đây là Tình yêu khắc kỷ,để mình tổn hại thay cho người mình yêu. Chuyện chiến tranh, được mất là để cho đàn ông. Tầng cao nhất của các tinh đẩu là Phúc thiện tinh: Quang Quý, Quan phúc.Gặp các bộ sao này, Hung có thể chuyển thành cát, đổ vỡ có thể chuyển thành bình an. Vị kỷ chuyển hóa thành Vị tha. Vì ân tình mà giữ gìn, bảo vệ, hy sinh vì người mình yêu. Những cách cụ này thường không chỉ nằm ở Tử vi, vốn nặng về thuật và dự báo học. Nó nằm trong nhân sinh nhiều đời, nằm ở giáo dục và đạo đức quan của cha mẹ, môi trường để lại và có tính kế thừa. Nó như cánh cửa Sinh mở ra từ của Tử của các môn Lý số. Nhưng rất khó có thể sử dụng. Vì Bản Ngã con người thường là vấn đề khó nhất để thấu triệt, thay đổi. "Không có tình yêu thương nào lớn hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu ". Đây là câu tiên đề của Kinh Thánh Công giáo. Nên các lá số mệnh Thiên Quan, Thiên Phúc, Ân quang, Thiên quý, nếu sống đúng tư tưởng Ki tô giáo, thường sẽ được loại trừ.

01/08/2024
BÁT THUẦN ĐOÀI_LƯỠNG TRẠCH TƯƠNG TẾ
Dịch học
BÁT THUẦN ĐOÀI_LƯỠNG TRẠCH TƯƠNG TẾ

8 quẻ thuần trong Kinh Dịch có đặc điểm chung, là sự xung đột giữa nội quái và ngoại quái. Nhưng sự xung đột lại đến từ sự giống nhau, dương dương đẩy nhau, âm âm đẩy nhau. Giống nhau nên không có phần mà nửa còn lại còn khuyết thiếu. Quẻ Bát thuần đoài là sự tương giao giữa 2 cái đầm "Trạch", nên gọi là "Lưỡng Trạch tương tế". Đoài là Đầm, nên sự tương giao nằm ở Thượng quái bù cho Hạ quái, hoặc theo chiều ngược lại. Chiều tương giao nằm ở hào động của quẻ, và nằm ở Lục thần ẩn sau địa chi trên quẻ. Hào động là gốc của Vận động luận của quẻ. Hào động thuộc về phần nhân, tâm người thay đổi thì hào động cũng thay đổi. Lục thần là gốc của Bản thể luận của quẻ. Lục thần gồm Thanh Long ( mộc) sinh Chu tước ( hỏa), sinh Câu trần ( dương thổ), và Phi xà ( âm thổ), sinh Bạch hổ ( kim), sinh Huyền vũ ( thủy), rồi tuần hoàn sinh lại Thanh Long ( mộc). Bạch hổ nằm hào nào, trọng khí ( mùa thu) sẽ rơi vào hào đó. Hào đó sẽ nặng và chậm. Thanh long nằm hào nào, thanh khí ( mùa xuân) sẽ rơi vào hào đó. Hào đó sẽ nhẹ và nhanh. [https://s3-cdn.aequitas.vn:9000/s24dapvpwebpt-test/17147186270601106542874838] Bàn về Bản thể động của Lục thần: Đặc điểm của Lục thần là Khí luôn tuần hoàn tương sinh đi từ hào 1 lên tới hào 6, và quay về lại hào 1. Lục thần được an theo Thiên can. Thiên can là số đại diễn của Thời gian. Thời gian thì chỉ đi 1 chiều. 5 ngày là hết 5 thiên can và đủ 60 giờ hoa giáp từ Giáp tới Dương thổ, lại thêm 5 ngày nữa để Khí thoái từ Kỷ thổ về tới Quý thủy. 10 ngày là 1 pha của chu kỳ Thiên can, 1 nhịp đập lên và 1 nhịp đập xuống. Với quẻ Bát thuần đoài, 2 chiếc đầm sẽ thay phiên nhau 1 đầm vơi thì đầm kia đầy, đầm kia vơi thì đầm này đầy. Tuân thủ nguyên tắc bảo toàn Khí. Những ngày Giáp hoặc mùa xuân thì Thanh khí tràn quẻ Hạ, Trọng khí đè quẻ Thượng. Trên Trọng dưới Khinh, Trên Tĩnh dưới Động. Ngược lại những ngày Canh Tân Nhâm quý và mùa thua đông thì Trọng khí tràn quẻ Hạ, Thanh khí ở quẻ Thượng. Khi điều tiết nước giữa 2 đầm, đầm chứa trọng khí thì nên điều tiết chậm, đầm chứa thanh khí thì nên dụng cái linh hoạt, sinh sôi của nó. [https://s3.aequitas.vn:9000/s24dapvpwebpt-test/171472313050316107787739] Bàn về vận động luận của hào động: Quẻ Thuần Đoài động hào 1 biến Trạch Thủy Khốn, động hào nhỏ mà sức xoay vận lớn, chỉ chốc lát là Đoài quẻ Hạ chuyển thành Khảm, thoát khí cả quẻ. Động tiếp tới hào 2 biến Trạch Địa Tụy. Đầm đoài quẻ Hạ đã hóa thành Khôn thổ đất bằng. Chiếc đầm quẻ Hạ đã cạn nước. Quẻ Đoài đã mất 1/2 thủy khí. Từ "Nuôi trồng thủy sản" chuyển qua " Vườn ao chuồng", đã có đất bằng để trồng cây ăn quả. Sau họa của hào 1 là Phúc của hào 2. Người quân tử có dám làm cách mạng tới hào này ? Nếu không đủ nhất khí, có thể sẽ như cá chết khô ở đáy đầm như quẻ Khốn. Động tới hào 3 biến Trạch Sơn hàm. Múc Ao ( Đoài ) làm Nhà ( Cấn) , chuyển Đoài thành Cấn. Chỉ đảo 3 vạch Đoài thành 3 vạch Cấn, thiên hạ đã thái bình, "Dân dĩ thực vi thiên". Thủy khí quẻ Hạ đã dồn hết lên quẻ Thượng, nước đục thành trong, đầm phá nhiều thì lũ lụt, giảm được 1/2 đầm phá, đào ao lấy đất làm nhà, làm vườn, Thiên hạ thực đã thái bình. Như vùng cửa bể Tiền Hải, Giao Thủy, Hải Hậu, Nghĩa Hưng, Kim Sơn, cả ngàn năm lũ lụt đói kém. Chỉ 1 lần nhờ Dinh điền sứ Nguyễn Công Trứ nhất tâm quai đê lấn biển, di dân. Biển đã lùi 50km, tạo 1 vùng sinh khí mới, sản sinh nhân tài, vật lực, tinh hoa Đại Việt cũng từ đây mà ra. Quẻ Hàm chứa cái đạo lớn lao của trời đất, nằm ở trong những việc nhỏ nhặt thường ngày. [https://s3.aequitas.vn:9000/s24dapvpwebpt-test/17147961351081517152057038] Trạch Sơn Hàm: Thiếu Nữ hàm cảm Thiếu Nam. Quẻ Đoài động tới hào 4 hóa Thủy Sơn Kiển. Sau sự cân bằng của quẻ Hàm, vạn vật vẫn phải tuần hoàn biến đổi. Sau sự bình yên của Trai gái Hàm cảm nhau, nên vợ nên chồng, 1 túp lều tranh,1 cái ao, lại là quẻ Kiển, quẻ Đại nạn.Kiển là 1 trong 4 quẻ đại nạn trong Dịch học: - Khảm là nguy hiểm nói chung - Truân là nguy hiểm còn ít, còn đang thời sơ khởi. - Khốn là nguy hiểm đến cùng cực, không có cơ cứu vãn - Kiển là nguy hiểm, là tạm thời bế tắc trong nguy hiểm, nhưng vẫn có cách thoát hiểm được. Quẻ Kiển đại ý dạy rằng: - Gặp nguy hiểm chớ nên liều lĩnh mà tiến lên. - Phải biết nén lòng, chờ đợi cơ hội thuận tiện. - Gặp nguy, đừng mua thêm cái khó vào người. - Phải tìm người lãnh đạo có tài, đức mà cộng tác. Cũng đúng lý tạo dựng trời đất. Adam và Eva được mấy ngày hạnh phúc ở vườn địa đàng, trước khi bị đuổi ra khỏi đó. Nên quẻ Kiển nên là tâm thế của Hôn nhân vợ chồng, tâm thế của Hôn nhân mà ở đó, không còn là 2 đứa trẻ Đoài Cấn vui vẻ, mà là trọng trách gách vác gia đình, sinh con ( Kiển cũng là đại nạn khi lâm bồn), vượt gian khó. 6 hào quẻ Kiển chỉ động tới hào 6 mới chuyển gian khó hiểm nguy thành Phúc khí ( Kiển động hào 6 thành Phong sơn tiệm). Có bao nhiêu người vượt qua nổi quẻ Kiển trong chuyện tình cảm nam nữ? Nên quẻ Kiển hào Huynh đệ Thân kim trì thế hào 4, Huynh đệ đỡ bên dưới cũng Thân kim hào 3. Thân kim là thần của gian lao cực khổ và phải thanh luyện, sắt không vào lửa không thành công cụ cho mùa màng. Có công mài sắt là quẻ Kiển. Quẻ Thuần Đoài động tới hào 5 hóa quẻ Địa Sơn Khiêm. Hệ 8 quẻ thuộc cung Thuần Đoài, đã chứa 2 quẻ đại nạn Khốn, rồi đến Kiển. Được 2 quẻ đại cát Hàm rồi tới Khiêm. Nếu vẽ biểu đồ, quả là Lên thác xuống ghềnh. Hào 1 gặp Khốn, rồi Tụ lại ( Tụy), để dựng vợ gả chồng ( Hàm), rồi phải vượt qua nghịch cảnh ( Kiển), rồi tới quẻ Khiêm. Quẻ Khiêm là 1 trong các quẻ đẹp nhất của Dịch học. Nó chứa cái triết lý An vi, gắn với nền văn minh gò đống ngàn năm của Đại Việt. Nền văn minh " Một mùa đi bằng chân, một mùa đi bằng tay". Quẻ Khiêm dụng cái Đạo Lớn ( quẻ Cấn của núi cao ngưng nghỉ) ở chỗ không ngờ nhất, khó nhất là đất bằng nơi đầm lầy sình bùn ( Khôn gốc Đoài). Quả là đãi cát tìm vàng. Văn hoá Việt lúc sống gắn với Làng ( gò lớn), chết âm phần nằm nơi gò nhỏ ( nghĩa địa). Các đại địa lớn sinh hào kiệt, đều rất nhiều gò đống quần hội về, cảm Thiên Địa Khí để sinh Nhân kiệt. Nên đạo của quẻ Khiêm cũng dựa vào đạo gốc " Lưỡng Trạch tương tế", gắn với việc định cư, an cư, lập ấp, tề gia. 6 quẻ Thuần Đoài, Khốn, Tụy, Hàm, Kiển, Khiêm là chu trình động hào tiệm tiến của quẻ chủ từ hào 1 tới hào 5. Đây là chu trình thuận. Quẻ thứ 7 khởi từ quẻ Khiêm động hồi lại hào 4, thành Lôi Sơn tiểu quá. Quẻ Tiểu quá với 2 hào âm bên dưới, 2 hào dương ở giữa, 2 hào âm thượng, hình là quẻ Đại Khảm, cấu trúc như hình con chim Phượng hoàng bay lên tử bùn sình Đầm lầy quẻ Khảm. Lời triệu của quẻ " Phi điểu di âm" ( chim bay để tiếng). Con chim khi đã bay cao, nhìn làng mạc, đồng bằng trong 1 khoảnh khắc. Như Hán Cao Tổ sau khi thống nhất thiên hạ trở về Huyện Bái, khi đã nếm đủ mọi kiếp nạn quẻ Khảm, vừa huy hoàng, vừa đau thương vì cảnh cũ người xưa. Nhưng con chim đã hoá phượng hoàng, góc nhìn mở rộng, khác biệt. Hào 4 quẻ Tiểu Quá Ngọ hoả là đạo quản trị, đạo dùng Lễ để An Vị. Nên quẻ này Cát khí nằm ở cái nhìn tổng thể vượt ra ngoài văn hoá Làng tớI Đại cục trị nước. Ngọ hào 4 là Đền làng, nơi các vị Thành hoàng tiếp tục hoá thân thành Thần, để bảo vệ Làng, phù vua. Quẻ Tiểu quá là quẻ Du hồn, quẻ Tống kết được mất, khắc bia, tạc công, táng mộ để Phúc cho con cháu. Quẻ kết của cung Đoài là quẻ Lôi Trạch Quy Muội, quẻ thứ 8, và là quẻ Quy hồn, quẻ hồi quy. Quẻ này dụng quẻ Đoài động hào 5 mà thành Quy Muội. Quy Muội là Xóm dựa vào Làng, Làng dựa vào Xã. Đoài gái nhỏ tòng Trưởng nam mà vẫn đại cát, mặc dù có thể có sự Lệch pha, chênh lệch. Quẻ Chấn gốc Đoài thuợng quái là Hệ thống đứng đầu gánh vác Làng nhỏ để bảo vệ Gái nhỏ khỏi trộm cướp, tại hoạ, là đạo quẻ Quy Muội. Nhỏ tòng theo Lớn mới hình thành Xã, Tổng, Phủ, Trấn, Kinh Thành. 8 quẻ Cung Đoài bàn chuyện 2 cái ao, cái đầm, lại thành Đạo tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Dịch học vốn là liên thông Tượng Khí. Ao vua mà lấp, thiên hạ chắc chắn xoay vần.

01/08/2024
TÁNG MỘ CHO NGƯỜI SỐNG
Phong thủy
TÁNG MỘ CHO NGƯỜI SỐNG

Thật kỳ lạ là có thể "đặt mộ" được cho người sống. Nhưng về Dịch lý thì có thể được. Bởi vì ngôi mộ mà con cháu chuẩn bị táng mẹ già vào, sẽ là "LỜI" phản ánh Phúc khí của con cháu tới đâu, cũng chính là Phúc khí của ngôi mộ. Thường Phong thủy bỏ khuyết phần quan trọng nhất của Kỹ thuật táng mộ, đó là chọn chữ THỜI. Thời gian là trường Không gian động, nó đủ sức để thêm hay bớt họa phúc vào bàn cờ KHÔNG-THỜI. Nó chiếm tới 50% thành bại. Nhưng cái khó nhất của chữ THỜI, là con người sẽ không thể biết ngày nào mình hay người thân sẽ ra đi. Đây chính là Huyền Cơ mà tạo hóa sắp đặt để con người có thể đi qua cửa hẹp Phúc Họa, khi đối diện với cửa hẹp Sinh Tử. THỜI GIAN 宙 ( TRỤ), chiết tự gồm bộ MIÊN 宀 và DUYÊN/ DO ( NGUYÊN DO/ NHÂN DUYÊN) 由. Chữ DUYÊN thì lại gần bộ Điền 田, chữ Điền đã chứa cả 4 phương tám hướng trong đó, chứa cả KHÔNG GIAN trong chữ DUYÊN, DO DUYÊN 由 由 mà tan, hợp, sinh tử. Bộ MIÊN 宀 ở đây, hình là cái "mái hiên", ý là "BAO TRÙM", có thể hiểu là ẩn dấu chữ VŨ 宇 ( KHÔNG GIAN) . Chữ VŨ lại chứa chữ VU 于 ( 2 chiều ĐI và VỀ). Chữ VU cuối cùng lại tàng 2 vạch Âm-Dương tương giao nhau qua 1 sát na sổ thẳng 丨 của THỜI. "Càn khôn Bĩ rồi Thái, Nhật nguyệt Hối lại Minh", là lý đóng mở của KHÔNG THỜI qua chữ VU, tàng trong chữ VŨ ( KHÔNG), và chỉ lộ ra ở bộ MIÊN trong chữ TRỤ ( THỜI ). Nên nắm được quy luật KHÔNG THỜI, là mở được cánh cửa HUYỀN MÔN của Địa Khí ( âm phần) thông với Thiên Khí ( KHÔNG THỜI). Chúng ta có thể hao tâm tổn trí, hao tài tốn của để tìm được cát địa cho gia tiên, nhằm báo hiếu mẹ già khi kim đồng hồ thời gian đang đếm ngược. Tưởng mọi việc vậy là đã xong, tâm thế này thường gần như tất cả đều có. Nhưng bản thân nó đã thể hiện sự khiếm khuyết về Phúc khí của nhân sinh. Giống như chúng ta dồn hết sức mua 1 cái xe thật đẹp, và nghĩ là chúng ta sẽ hạnh phúc với nó. Nhưng chúng ta lại quên mất không học cách lái. Thông thường khi đặt mộ hung táng, do ngày giờ sinh tử là bất kỳ, nên nếu nhìn Nhân duyên nghiệp quả dưới góc nhìn Lão Gia, thì ngày giờ Phạm chỉ là quả. Nên nhìn Quả chuẩn bị "rụng", là ắt biết DUYÊN hung hay cát. Giả như cuộc đất hướng Đông Nam ( Thìn Tốn Tỵ), mà Mẹ già sẽ nguy cơ mất vào tháng Thìn-Tỵ, năm Thìn-Tỵ, thì hiển nhiên Quả là phạm Thái Tuế, Nguyệt sát. Nhân Duyên là do bất hòa, thị phi, hình pháp mà phạm Thái tuế, Nguyệt sát. Dòng họ đủ Phúc, trong 1 tích tắc này, nếu giữ được hòa khí, anh em đoàn kết phần nhân khí. Con cháu chạy chữa đề người già qua khỏi cơn bạo bệnh. Vừa là báo hiểu Cha Mẹ, vừa cải Phúc ở ngay cửa Sinh Tử. Thường những trường hợp vượt trên Tử thần như thế này, phải được Ơn trên, con cháu cần xám hối, bỏ bớt bản ngã, cái tôi. Không việc táng mộ phần mẹ già sai THỜI, như cỗ quan tài đong đủ Họa khí vì bất hòa của Dòng tộc. Huyệt có tốt mấy, táng sai thời điểm cũng đổ sông bể. Xe tốt mấy, không biết lái Phúc cũng thành Họa. Sách Táng thư 2000 năm trước đã viết " Táng mộ thực là táng Tâm". Nên bản chất của âm phần, là táng Tâm của người sống vào huyệt mộ của người đã/ sẽ khuất. Táng người chết, thực ra là Táng Tâm cho người sống. [https://s3-cdn.aequitas.vn:9000/s24dapvpwebpt-test/17147964448981216368098298] Vua Thánh Đa Vít đã viết về cửa Sinh Tử như thế này: "ba tấc đất mới thật là nhà, nơi họ ở muôn đời muôn kiếp."

01/08/2024